( Mt 27, 11-54)
Tin mừng hôm nay, tường thuật lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc “Thương khó” của Chúa Giêsu là vì Người trở nên “khó thương” đối với nhiều người, thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Khó thương đối với dân Do Thái
Nhiều lần dân chúng đã nhiệt liệt vỗ tay, tét đùi khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu thực hiện: Trừ quỷ câm ( Lc11,14-23), cứu chữa con trai của viên sĩ quan ngoại giáo (Ga 4, 43-54), chữa người bất toại 38 năm được khỏi bên bờ hồ Bết-da-tha (Ga,1-16), cho người mù từ lúc mới sinh được xem thấy (Ga 9, 1-38). Cho La-da-rô sống lại ( Ga1,1-45).
Mới hôm nào họ được no lòng, thoả dạ khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn no nê.
Trước đây, họ đã nức tiếng khen ngợi về những lời giảng dạy khôn ngoan của Chúa Giêsu và tin nhận: “ông này thật là vị ngôn sứ”. Kẻ khác rằng “ông này là Đấng Kitô”(Ga 7,40). Họ kháo nhau: “Ông này không học hành gì mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (Ga7,15).
Mới đây, đám đông dân chúng thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít” ; “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”.
Thế mà liền sau đó họ lại chống đối, lên án và la hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá".
Trước đây, Chúa Giêsu là thần tượng được dân chúng ngưỡng mộ yêu mến, thì trong thời điểm “thương khó”, Chúa Giêsu lại trở thành nhân vật “khó thương”.
Khó thương đối với giới chức tôn giáo
Chúa Giêsu đụng chạm đến uy tín họ
Chúa Giêsu nhiều lần lên án gắt gao lối sống giả hình của giới chức tôn giáo. Chỉ chích họ giữ đạo hình thức mà không có tâm tình yêu mến. Vạch mặt những việc đạo đức của họ làm, cốt để lòe mắt thiên hạ. Khiến cho uy tính của giới chức tôn giáo càng lúc càng bị lu mờ.
Chúa Giêsu đã đụng chạm đến quyền lợi vật chất của họ
Thu nhập kinh tế của hàng ngũ giới chức chủ yếu nhờ vào buôn bán và đổi tiền ở đền thờ. Đặc biệt vào những ngày lễ lớn, nguồn thu nhập của họ và con cháu họ rất lớn. Vậy mà Chúa Giêsu dám động đến nồi cơm của họ. Dám cả gan vào đền thờ đánh đuổi những con buôn và lật tung những bàn đổi tiền. Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Và còn xưng mình là Con Thiên Chúa (Mt 26,61; Mc 14,58).
Vì những lý do trên, Chúa Giêsu đã trở nên nhân vật “khó thương” trong con mắt của hàng lãnh đạo tôn giáo. Không lạ gì, họ quyết lên án tử Chúa Giêsu.
Khó thương đối với giới chức chính quyền
Để tạo được sự đồng thuận đối với giới chức chính quyền, giới chức tôn giáo đã gắn Chúa Giêsu vào tội chính trị. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã xách động dân chúng chống lại chính quyền: “Chúng tôi phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda, lại còn xưng mình là Mêsia, là vua nữa” (Lc 23, 2).
Do đó, Chúa Giêsu bị xem là nhân vật nguy hiểm đối với giới chức lãnh đạo của đế quốc Rôma, vì có âm mưu lật đổ chính quyền và lãnh đạo dân chúng nổi dậy làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Chúa Giêsu đương nhiên trở thành đối tượng nguy hiểm đối với các giới chức chính quyền. Cần phải tiêu diệt ngay.
Khó thương đối với môn đệ của mình
Chúa Giêsu đã trở nên khó thương trong mắt của môn đệ Giuđa.
Giuđa, một con người được Chúa yêu thương chọn gọi làm môn đệ. Được Chúa dạy dỗ và cho chứng kiến bao phép lạ Chúa làm. Được Chúa tín nhiệm giao cho làm thủ quỹ, giữ túi tiền. Nhưng vì tham lam tiền của, say cuồng theo đuổi mục tiêu chính trị, giải phóng dân tộc, Giuđa đã phản lại thầy. Dùng một cái hôn rẽ tiền để bán đứng thầy. Trong mắt ông, Chúa Giêsu đã trở nên ông thầy “khó thương”, đáng để cho ông lợi dụng.
Phêrô cũng chẳng hơn gì.
Tự hào về lòng trung tín đối với thầy. “Dù mọi người có bỏ thầy, thì con sẽ không bỏ thầy”. Vậy mà ông đã dễ dàng chối bỏ thầy mình trước một cô đầy tớ. Chẳng những chối một lần mà cả đến ba lần. Không chỉ chối thầy mà còn chối bỏ cả nguồn gốc, quê hương xứ sở của mình nữa. Với Chúa Giêsu, trong cuộc thương khó đã trở nên “khó thương” đối với Phêrô thế sao!
Cũng như Giuđa và Phêrô, các tông đồ khác được Chúa Giêsu hết lòng thương yêu, dạy bảo. Được Chúa ban cho diễm phúc đồng thân, đồng phận với Chúa. Nhưng vì sợ đồng tử nên đã bỏ thầy mình trong lúc hoạn nạn, để chạy thoát thân. Ôi thầy Giêsu "khó thương" đến thế.
Khó thương đối với chúng ta
Nếu xưa kia, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” trong mắt mọi người, thuộc mọi thành phần. Từ giới chức tôn giáo đến quan chức lãnh đạo đời. Từ dân chúng ít hiểu biết đến giới trí thức kinh sư, luật sĩ. Từ những bà con làng xóm đến những môn đệ thân tín. Thì ngày nay, Chúa Giêsu cũng trở nên “khó thương” đối với nhiều người trong chúng ta như vậy.
Như Giuđa, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” đối với chúng ta. Bởi vì Ngài không đáp ứng được những yêu sách đòi hỏi của chúng ta khi ngăn cản lòng tham lam và những việc làm giả dối của chúng ta.
Giống như Phêrô, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” với tôi, vì Ngài bắt tôi phải trung thành với Ngài trong việc tuân giữ Lề Luật và Giáo Huấn của Ngài. Ngài còn đòi hỏi tôi phải thể hiện niềm tin trước mặt mọi người. Trong khi tôi đang sống trong xã hội vô thần. Ôi khó biết bao!
Như giới chức tôn giáo, tôi cảm thấy khó chịu. Bởi vì lời dạy của Ngài ngăn cản lối sống giả hình. Đã phá tính kiêu căng tự mãn. Công kính những việc làm sai trái của tôi.
Cũng giống như giới chức chính quyền, nhiều lúc tôi không có chút cảm tình với Chúa Giêsu. Bởi Ngài chính là đối tượng nguy hại, ảnh hưởng đến cuộc đời tôi. Chính vì Ngài mà tôi bị loại ra khỏi hàng ngũ đảng. Vì Ngài mà tôi mất đi cơ hội ngồi vào chiếc ghế lãnh đạo. Vì Ngài mà tôi mất việc…. Vì thế tôi cần phải đánh chéo tên Giêsu khỏi cuộc đời tôi.
Tệ hại hơn, giống như đám đông dân chúng, tôi cũng nông nổi nhẹ dạ, dễ nghe theo dư luận, lúc thì vỗ tay ủng hộ đạo thánh Chúa, lúc thì gào thét đả đảo Giáo Hội Chúa. Vì chức quyền, danh vọng, tiền bạc… tôi sẵn sàng gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Một nỗi buồn thấm thía, sao Chúa lại trở nên “khó thương” và bị bạc bẽo đến mức như vậy?
SỐNG LỜI CHÚA TUẦN THÁNH
THỨ HAI (Ga 12, 1-11)
Dẫn
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?...Ai thi hành ý muốn Cha tôi,…người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,48-49).
Gia đình của Chúa là gia đình đức tin. Người thân của Chúa là những ai yêu mến và sống Lời Chúa.
Gia đình Bêtania là gia đình đức tin vì mỗi người trong gia đình này đều thể hiện niềm tin của mình cách tích cực với hết khả năng của mình. Do đó họ xứng đáng là anh chị em của Chúa và được Chúa yêu thương.
Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng ta biết yêu Chúa hết lòng qua những việc làm cụ thể trong tuần thánh này, để xứng đáng là gia đình đức tin.
Chia sẻ
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đến làng Bêtania, (cách Giêrusalem độ chừng 3km) để dùng bữa cơm tối tại nhà La-da-rô, người được Chúa Giêsu cho sống lại.
Trong bữa ăn tối thân tình này, ta nhận ra một mẫu gia đình cần phải có để xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Mác-ta: Vốn là con người năng động “lăng xăng nhiều việc”. Hôm nay lại đuợc Chúa Giêsu viếng thăm và ở lại dùng bữa. Trong tâm tình biết ơn, vì Chúa đã cho La-da-rô em mình sống lại nên đã chuẩn bị bữa tiệc chu đáo thết đãi Chúa.
Maria: Tin Mừng cho biết là người thích ở bên chân Chúa để nghe Chúa dạy bảo. Cô cũng là cô gái tội lỗi đi tìm Chúa và gặp Chúa đang dự tiệc tại nhà ông Si-mon. Cô mang đến một cái bình bằng đá ngọc quý, đựng nước hoa hảo hạng, cô đến quỳ bên chân Chúa rồi đập cả bình để đổ hết nước hoa trên chân Chúa, khiến cả nhà thơm ngào ngạt, rồi cô lấy tóc mà lau. Tin mừng hôm nay thánh Gioan cho biết, vì lòng yêu mến Chúa nên cô đã lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.
La-da-rô: Người được Chúa thương, được Chúa cho sống lại. Anh là chứng nhân sống động cho mọi người tin Chúa. Anh được ngồi đồng bàn cùng với Chúa.
Một gia đình có ba người, mỗi con người mỗi tính cách, mỗi người thể hiện tình yêu của mình nơi Chúa Giêsu mỗi cách thế khác nhau.
Mác-ta, không ngại vất vã làm việc nhiệt tâm để lo bữa ăn chu đáo cho Chúa.
Maria, không sợ tốn hao tiền của vì Chúa. Cô không ngại thể hiện mọi cử chỉ khiêm tốn nhất, để nói lên lòng kính yêu Chúa.
La-da-rô, người được gọi là bạn của Chúa Giêsu. Anh được Chúa thương mến cho sống lại. Trong bữa tiệc, anh được ngồi bên Chúa. Chứng tỏ anh cũng đã yêu Chúa hết lòng.
Một gia đình toàn những con người chân tình, hết lòng yêu thương Chúa thì làm sao Chúa không thương mến.
Xin cho mọi gia đình công giáo, biết bắt chước mẫu gương của gia đình Bêtania hết lòng yêu mến Chúa. Sẵn sàng hy sinh làm tất cả vì tình yêu Chúa.
Nhất là trong tuần thánh này biết sẵn sàng hy sinh thời giờ, công việc riêng, để sống thân tình với Chúa qua việc tham dự đầy đủ và tích cực các nghi thức phụng vụ. Đồng thời cũng sẵn sàng hy sinh cả tiền của, công sức để góp phần vào việc tổ chức các nghi lễ trong tuần thánh được trang trọng nơi giáo xứ mình.
THỨ BA (Ga 13,21-33.36-38)
Dẫn
Xã hội xưa nay đều lên án những kẻ phản bội, bất trung. Ai cũng đều căm ghét những kẻ “ăn cháo đá bát”. Nhưng bất trung và phản bội vẫn tồn tại trong xã hội con người trong đó có cả chúng ta.
Xin cho ta được lòng trung thành tin yêu Chúa.
Chia sẻ
Ngày 19 tháng 01 năm 2011, tại phường 6, TP Tân An, tỉnh Long An, xảy ra vụ án nghiêm trọng. Nhà báo Hoàng Hùng đang ngũ, đã bị bà vợ Trần Thúy Liễu nhẫn tâm đổ xăng lên mình, rồi châm lữa thiêu đốt trong đêm tối cho đến chết. Theo điều tra cho biết nguyên nhân dẫn đến vụ án ghê sợ này là do ông Hùng biết chuyện tình gian díu của bà ở bên ngoài, và do vấn đề kinh tế gia đình khó khăn vì nạn cờ bạc của bà. (Theo Vân Trường - Ngọc hậu). Tuổi Trẻ
Nếu vì “tình gian dối” mà bà Liễu đã phản bội chồng, thì Giuđa cũng không hơn gì. Bằng cử chỉ “chấm chung” thể hiện tình yêu đối với thầy, nhưng lại là “cái chấm dối trá”, Giuđa đã phản bội Thầy mình .
Nếu vì túng thiếu “tiền bạc”, bà Liễu đã nhẫn tâm giết chồng, thì Giuđa cũng vì “30 đồng bạc” mà sẵn lòng nộp Thầy cho quân dữ.
Sự phản bội của bà Liễu và của Giuđa, đều đáng bị lên án và trừng phạt đích đáng.
Nhưng khi lên án họ, ta cũng nghĩ đến ta. Chúng ta cũng có thể trở thành người phản bội Chúa khi ta cố tình phạm tội.
Có lẽ không ai trong chúng ta muốn mình giống như Giuđa. Nhưng nhiều lúc vô tình hay cố ý, chúng ta cũng đã trở thành kẻ phản bội Chúa như Giuđa. Xin Chúa tha thứ và xin cho chúng ta biết ý thức gìn giữ cho tâm hồn mình được trong sạch.
THỨ TƯ (Mt 26,14-25)
Dẫn
Bài tin mừng hôm nay cũng gần giống bài tin mừng hôm qua, thuật lại những tình tiết diễn ra của bữa tiệc ly. Nhưng tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến nỗi buồn của Chúa Giêsu khi biết Giuđa là kẻ phản bội.
Chúa cũng sẽ rất buồn nếu ta phạm tội phản bội lại tình thương của Người.
Chia sẻ
Ngày 13 tháng 04 năm 2011, báo Tuổi Trẻ đăng bài: "Nghệ An: Tang tóc chồng lên tang tóc"
Vào lúc 2g30 ngày 12-4, một tai nạn giao thông thảm khốc đã giết chết bốn người, làm bị thương hai người, trong đó có 5 người là anh em ở xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương (Nghệ An).
Năm người này đang trên đường di chuyển thi hài người thân từ sân bay Nội Bài về quê an táng.
Khi đến thị trấn Còng, huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) do lái xe ngủ gục, xe đã đâm vào phía sau chiếc tải đang dừng bên đường gây nên tai nạn khiến tang tóc chồng lên tang tóc.
Tang tóc chồng chất lên người thân của các gia đình nạn nhân. Khiến những bà vợ gào khóc trong cơn bấn loạn và chết lặng người khi chứng kiến cái chết của chồng mình. Đêm Văn Đồng trở thành một đêm tang tóc.
Nếu tang tóc đã chồng lên tang tóc đối với người thân của các nạn nhân ở Văn Đồng, Nghệ An thế nào, thì đau buồn lại chồng lên đau buồn đối với Chúa Giêsu còn lớn hơn nhiều, trước sự phản bội của Giuđa, một môn đệ được Chúa yêu thương.
Mặc dù Chúa Giêsu đã dùng mọi cử chỉ, nói lên lòng yêu thương đối với Giuđa trong bữa tiệc ly để ông nhận ra tội lỗi của mình mà sám hối. Nhưng Giuđa vẫn dững dưng không hề thay đổi ý định nộp thầy. Thật đau buồn biết mấy!
Người đời thuờng nói, nổi đau lớn nhất không phải vì biết được sự phản bội của người thân mà là vì phải tiếp tục yêu thương họ.
Dù Chúa Giêsu biết rõ môn đệ Giuđa mà mình tín nhiệm yêu mến phản bội. Nhưng Chúa vẫn tôn trọng tư do của ông và phải tiếp tục yêu thương ông. Quả là nổi đau chồng lên nổi đau đối với Chúa Giêsu khi phải chứng kiến sự phản bội của người trò mình yêu mến.
Đạo lý Việt Nam coi hành động lừa thầy phản bạn là một tội ác về đạo đức, không thể tha thứ. Nhưng với Chúa Giêsu thì Ngài không bao giờ thất vọng về chúng ta. Dầu chúng ta có xấu xa tới đâu, dẫu chúng ta có tội lỗi ngập tràn. Tình yêu Chúa đối với ta không hề đổi thay. Ngài vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho ta.
Xin cho chúng ta biết cảm nhận được nổi đau chồng chất mà Chúa đã chịu vì tội lỗi chúng ta. Và mong cho tất cả chúng ta, đừng có ai mắc phải lỗi lầm của Giuđa mà phản bội lại tình Chúa.
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
NGÀI YÊU THƯƠNG HỌ ĐẾN CÙNG (Ga 13,1)
Định luật tình yêu dạy cho ta hiểu rằng: yêu ai thì muốn ở gần người đó, yêu ai thì muốn hy sinh phục vụ cho người đó, yêu ai thì muốn trở nên một với người mình yêu.
Tình yêu của Chúa Giêsu thể hiện qua bài tin mừng hôm nay, cho chúng ta thấy những điều đó.
Yêu ai thì muốn ở gần người đó.
“Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian; và Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
“Đức Giêsu biết giờ của người đã đến”, thời gian mà Người phải lìa bỏ thế gian mà trở về cùng Thiên Chúa.
Thời gian còn lại không bao nhiêu nên Ngài muốn tận dụng thời điểm mừng đại lễ vượt qua của người Do Thái để tổ chức bữa tiệc với các môn đệ, vừa theo đúng luật định vừa tranh thủ giờ phút ngắn ngủi trong phòng tiệc ly ấm cúng để ở bên các môn đệ yêu dấu.
Thánh Gioan cho biết Đức Giêsu đã ao ước mãnh liệt được dùng bữa ăn này với các môn đệ vì đây là bữa tiệc cuối cùng. Trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã không ngại lên tiếng bộc lộ những tâm tình sâu kín về lòng thương của Ngài dành cho các môn đệ. Ngài gọi họ bằng những lời lẽ đầy thân thương: “những người con bé nhỏ của Thấy”. Lòng bên lòng, Chúa Giêsu giãi bày tâm sự vừa thắm thiết vừa u buồn. Vượt trên hết là linh cảm về cái chết, với những lời tiên báo về sự phản bội, bỏ rơi, hy sinh. Cuộc trao đổi thân tình dần dần đi đến kết thúc, trong khi những lời của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tuôn ra một cách dịu dàng và cuốn hút, mặc dù có một chút căng thẳng khác thường ẩn trong những lời ám chỉ nghiêm trọng của Ngài về dao động giữa sự sống và sự chết. Tất cả những gì mà Chúa Giêsu thể hiện trong bữa tiệc ly là muốn được ở bên các môn đệ cách thân tình nhất, để thể tình yêu thương Ngài.
Yêu nhau là sẵn sàng hy sinh phục vụ
Yêu thương bằng lời thì có thể coi là đầu môi trót lưỡi, yêu thương bằng thái độ có thể bị coi là giả hình. Chỉ có yêu thương bằng hành động mới là tình yêu chân thực.
Chúa Giêsu không chỉ dạy các môn đệ của Ngài : “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” mà Chúa Giêsu còn thể hiện tình yêu cụ thể bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ.
Ngài không ngần ngại cởi bỏ chiếc áo cao sang của Thiên Chúa; nhận lấy chiếc áo phận người, nhận lấy phận tôi đòi cúi xuống dưới chân cho các môn đệ.
Rửa chân xong, Chúa Giêsu ngồi vào bàn tiệc và dạy cho các môn đệ về bài học yêu thương bằng cách phục vụ: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vậy Thầy là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”
Bằng hy sinh khiêm tốn phục vụ, người ta đo lường được sự chân thành và mức độ của tình yêu.
Yêu nhau người ta muốn nên một với nhau
Khi Yêu nhau người ta không dừng ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta còn muốn nên một với người mình yêu : mình với ta tuy hai mà một. Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu Người ở lại mãi với người mình yêu.
Người đời trước khi đi xa, xưa nay thường để lại cho người thân bằng những kỉ vật, bằng của hồi môn quý giá. Đối với Chúa Giêsu những kỉ vật những của hồi môn dù cho quý giá mấy cũng tầm thường, không đủ nói lên hết tấm lòng yêu thương của Chúa dành cho nhân loại. Nên Chúa muốn dùng kỉ vật hết sức đặc biệt và cao trọng nhất, đó chính bản thân Chúa. Nhưng bản thân bằng xường thịt của Chúa chỉ có thể trao ban một lần, không thể trao ban mãi. Vì thế, Chúa muốn lưu lại bản thân Ngài bằng h́nh thức nhiệm mầu dưới hình bánh và rượu làm của ăn của uống thiên liêng dưỡng nuôi linh hồn ta. Làm như thế Chúa muốn ở lại với các tông đồ và với chúng ta luôn mãi. Đồng thời qua việc kết hiệp với Mình Chúa, Chúa lưu truyền sự sống của Ngài trong thân thể và trở nên một trong chúng ta.
Để thể hiện yêu thương các môn đệ đến cùng, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài và là hiện thân của Ngài giữa trần gian. Vì thế Chúa Giêsu trao ban chức linh mục cho các môn đệ “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong thánh lễ, nhờ việc đặt tay trên bánh rượu và đọc lời truyền phép như Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, qua đó Chúa hiện diện nơi hình bánh rượu, trở nên của ăn bổ dưỡng thân xác nuôi sống linh hồn cho những ai đón nhận Ngài, vì Chúa nên một với chúng ta.
Tham dự cử hành nghi thức rửa chân và thánh lễ chiều thứ năm hôm nay, ước gì giúp ta hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ và tình thương đến cùng mà Chúa dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận sâu sắc tình Chúa mà nổ lực hết sức mình để đáp lại tình Chúa yêu thương bằng đời sống gắn bó thân tình với Chúa; bằng những hy sinh phục vụ quên mình vì Chúa và tha nhân, nhất là luôn biết gắn kết với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể để Chúa ở trong ta và ta được sống trong Chúa trong tình yêu viên mãn.
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Ba cách đón nhận cái chết khác nhau
Chúa Giêsu đã từng nói: “Được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, nào có ích gì”. Thực vậy, có những người khi sống đã được cả thế gian, nhưng cuối đời họ đã đánh mất tất cả. Mất cả danh dự. Mất cả bổng lộc. Mất cả người thân và cuối cùng là mất cả mạng sống.
Cuối năm 2006, toàn thể thế giới đều nghe nói về ba cái chết của ba nguyên thủ ba quốc gia. Ba người ba cá tính, ba cung cách lãnh đạo khác nhau. Trước cái chết của họ, có kẻ khóc, có người vui. Có kẻ ngậm ngùi thương tiếc, có kẻ khai rượu ăn mừng. Điểm chung của họ là được cả thế gian nhưng rồi họ cũng ra đi tay trắng như bao người khác.
Người thứ nhất đó là tổng thống Chilê, Ausgusto Pinochê đã qua đời ngày 10/12/2006 . Ông đã cai trị nước Chi Lê từ năm 1973 đến 1990. Các tổ chức nhân quyền của Chi Lê đã ước lượng dưới quyền thống trị của ông, có ít nhất 2,100 người bị xử tử vì lý do chính trị, hơn 1,100 tù nhân bị mất tích và khoảng 10,000 tù nhân bị tra tấn trong những trại tù bí mật ở trong nước. Ông đã bị toà án quốc tế truy tố năm 1998 về tội diệt chủng. Ngày an táng của ông, Đức Hồng Y Karmelic đã cầu xin Thiên Chúa “quên đi những lầm lỗi của Augusto Pinochê”.
Người thứ hai đó là tổng thống Geral Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ. Ông đã an nghỉ vĩnh viễn vào ngày 26/12/2006. Cuộc đời ông không có gì vẻ vang, không có chiến tích đánh đông dẹp tây, nhưng ông được nhìn nhận là người ôn hoà. Ông đã có một hành động thật phi thường là tha thứ cho cựu tổng tống Nixon khỏi bị truy tố. Ông đã nói rằng: Ông tha thứ cho Nixon vì quốc gia Hoa Kỳ chứ không phải vì bản thân Nixon.
Cuối cùng là cái chết của nhà độc tài Sadam Hussen, cựu tổng thống Iraq . Ông đã bị kết án treo cổ tử hình vì tội giết người vô tội. Ông là một người đã được trời ban cho mọi vinh hoa phú qúy trần gian, nhưng khi chết chỉ có một dây thòng lòng quốn quanh cổ. Dù rằng, ông không chấp nhận bản án, không chấp nhận cái chết nhục nhã này, nhưng định mệnh đã lấy đi mạng sống của ông khỏi trần gian.
Ba nhân vật này đã đi vào cái chết khác nhau. Có người bình thản ra đi. Có người ra đi nhưng vẫn ôm trong lòng những ray rức lương tâm. Có người ra đi trong bất mãn tột cùng. Và như vậy, cuộc đời chỉ có giá trị khi mình biết sống để phục vụ sự sống. Cuộc đời sẽ bị người đời khinh chê nếu chỉ biết gieo vãi sự chết chóc và kinh hoàng. Sự ra đi trong thanh thản bình an hay lo âu sợ hãi cũng tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta: nhân đức hay tội lỗi, công bình hay gia dối, hiền lành hay gian ác.
Cách đây hơn hai ngàn năm, trên đồi Golgôtha, có ba tử tội đã bị kết án tử hình trên thập tự giá. Ba tử tội, tuy sinh không cùng năm nhưng lại chết cùng ngày, cùng tháng. Ba tử tội đã đi vào cái chết thật khác nhau.
Người thứ nhất bên tả đã oán hận phận số của mình. Cuộc đời của anh chỉ biết giết người và cướp của. Cuộc đời anh chỉ lo gom góp cho bản thân, chỉ nhằm phục vụ bản thân, cuối cùng anh đã ra đi tay trắng trong uất hận đau thương.
Người thứ hai bên hữu đã đón nhận cái chết trong khiêm tốn, ăn năn. Anh đã hoang phí cuộc đời để chạy theo ảo ảnh trần gian. Thế nhưng, anh đã kịp ăn năn về cả một quá khứ lầm lạc. Anh đã chấp nhận cái chết khổ hình như một hình phạt xứng với tội lỗi của mình. Anh ra đi trong an bình của người biết sám hối ăn năn.
Ở chính giữa là thập giá Chúa Giêsu. Chúa đi vào cái chết như của lễ đền tội cho nhân sinh. Chúa chấp nhận cái chết vì loài người và để cứu rỗi loài người. Chúa đã chịu khổ hình không do lầm lỗi của mình mà vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chết vì tình yêu đối với nhân loại, đến nỗi đã trở thành khuân mẫu cho mọi tình yêu. Vì “không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu dám chết thay cho bạn hữu”.
Hôm nay thứ sáu tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu. Khi mang thân phận của một con người như chúng ta, Chúa Giêsu đã sống một đời để phục vụ con người, và Ngài cũng đón nhận cái chết vì con người. Thế nên, tình yêu của Ngài đã thành bất tử trên trần gian. Thập giá không còn là nỗi ô nhục mà là một cuộc khải hoàn vinh quang.
Đó chính là sứ điệp ngày thứ sáu tuần thánh mà Chúa đang mời gọi chúng ta, muốn trở môn đệ của Chúa hãy vác khổ giá mà buớc theo Chúa. Hãy sống một đời biết cho đi. Hãy biết dùng khả năng của mình mà phục vụ sự sống cho đồng loại. Và hãy biết hiến thân mình để đem lại hạnh phúc cho tha nhân, vì chưng: “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
DUNG MẠO NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ
Trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đi lại hành trình thương khó của Chúa Giêsu trên dương thế. Trong hành trình đó, chúng ta gặp được dung mạo của một Đức Kitô đau khổ, đau khổ tột cùng.
1. Những đau khổ mà Đức Kitô phải chịu là gì ?
Trong khoa tâm lý học, người ta phân biệt 2 loại đau khổ : đau khổ về thể lý và đau khổ về tinh thần hay tâm linh. Đau khổ nào cũng là khổ đau. Đau khổ nào cũng có sức huỷ hoại sự sống con người cả. Nơi cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có đủ cả 2 loại đau khổ này.
- Đau khổ về mặt thể lý : Bị lý hình đánh đập hành hạ bằng những đòn roi tàn bạo. Bị những vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu. Theo lời sách ngắm thì vòng gai có đến 72 cái gai do quân dữ đánh lọt vào óc (chỉ vài cái đã đau đớn lắm rồi đàng này 72 cái). Bị cái đói cái khát dày vò. Bởi vì máu càng ra nhiều bao nhiêu, thì càng khát nước bấy nhiêu. Nhất là bị đóng đinh căng thây trên cây thập giá, tay chân đinh nhọn xuyên qua.
- Đau khổ về mặt tinh thần : Bị dân chúng trở mặt lên án, đòi đóng đinh vào Thập giá. Trong số đó, có cả những kẻ mà mình đã thi ân giáng phúc. Bị quân lính xỉ nhục lăng mạ. Bị các môn đệ bỏ rơi, đặc biệt là bị chính những người thân tín nhất chối từ, bội phản. Một Giuđa, kẻ được tín nhiệm trao cho việc quản lý tài chánh, không ngại ngùng dùng chính cái hôn để phản nộp sư phụ của mình. Một Phêrô, người được trọng dụng cất nhắc lên địa vị trưởng Tông Đồ đoàn, cũng chẳng thẹn thùng chối bai chối bải Thầy mình không những một lần mà đến ba lần. Chắc là không còn nỗi đau nào hơn thế.
2. Chúa Giêsu đã đón nhận đau khổ với thái độ nào ?
Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ đó với thái độ tự hạ, tự hiến nhằm dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ hy sinh làm giá cứu chuộc nhân loại. Ngài như con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không một lời kêu ca. Bị hành hạ, Ngài không một lời kêu than. Bị xỉ nhục, Ngài không mắng chửi. Bị vác thập giá, Ngài không vừa vác vừa càm ràm than trách. Bị ngã lên ngã xuống, Ngài không thở dài tuyệt vọng. Bị treo trần trụi trên thập giá, Ngài không nguyền rủa. Các sử gia La mã (Seneca, Cicêrô) cho biết những kẻ bị đóng đinh thường la hét và chửi rủa. Do đó có khi phải cắt lưỡi kẻ bị đóng đinh, để y khỏi thốt ra những lời xúc phạm, lăng mạ kinh tởm… Nhóm Luật sĩ và Biệt phái chắc cũng chờ đợi : từ thập giá Đức Giêsu sẽ thốt ra những tiếng kêu la và nguyền rủa! Nhưng không phải thế. Những lời của Đức Giêsu lại tràn đầy dịu dàng và yêu thương : “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng chẳng hiểu biết việc chúng làm”. Ngài còn hướng về kẻ trộm lành, đại diện cho những người có tâm tình hoán cải : “Hôm nay, người sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”.
Ở đời người ta vẫn thường nói : “Yêu là khổ”. Câu nói này rất đúng với trường hợp của Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, ta không thể tìm được một lý do nào thích hợp hơn để lý giải, ngoại trừ lý do yêu thương. Nói cách khác, hành trình thương khó của Chúa Giêsu là hành trình của tình yêu. Vì yêu nên Ngài đã sẵn lòng đón nhận mọi khổ đau, vui lòng chấp nhận mọi hy sinh, và bằng lòng cho đi đến cùng.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao hiến tất cả : y phục, Ngài trao cho lý hình; uy quền trần thế, Ngài trao cho Hêrôđê; thân mẫu, Ngài trao cho một người môn đệ; ngay cả sự sống, Ngài trao cũng lại cho Thiên Chúa Cha. Tắt một lời, Ngài không còn giữ lại gì cho mình.
Và chính vì yêu bằng một tình yêu hiến trao tất cả như thế, nên Thập giá của Chúa Giêsu đã nở hoa, hoa cứu độ, hoa đem lại sự sống trường sinh cho con người.
3. Thái độ của chúng ta ra sao khi đối diện với đau khổ ?
Cuộc sống của con người cũng luôn đầy dẫy những khổ đau. Đức Phật đã nói : “Đời là bể khổ”. Vậy làm gì trước những đau khổ của mình và của người khác ? Nếu chúng ta biết vui lòng đón nhận và liên kết với đau khổ của Chúa Giêsu thì những đau khổ mà chúng ta chịu sẽ mang lại giá trị cứu độ. Nếu chúng ta biết chia sẻ và cố gắng làm vơi bớt đi những đau khổ của người khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu mai sau.
Thế nhưng, trên thực tế ta thấy rằng khi gặp thử thách gian truân, ta thường hay kêu ca và phản kháng. Gặp thánh giá, ta thường than vắn thở dài, muốn vứt bỏ càng sớm càng tốt. Gặp thất bại, ta thường nãn lòng oán trách. Gặp những gì trái ý, ta thường bực bội cau có. Chính vì thế, thập giá khổ đau càng thêm nặng, vả lại chúng ta lại mất hết công phúc.
Xin cho mỗi người chúng ta biết năng suy ngắm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, nhất là biết nhìn lên Thánh giá Chúa để hiểu rõ hơn ý nghĩa của đau khổ, đồng thời tìm được nghị lực và sức mạnh hầu có thể vác thập giá mà theo chân Chúa cho đến cùng. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
THỨ BẢY: VỌNG PHỤC SINH
SỨ ĐIỆP PHỤC SINH
(Mt 28, 1-10)
Tin mừng đêm vọng phục sinh tường thuật lại sự kiện hai phụ nữ Maria Mácđala và Maria đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Hai bà chứng kiến cảnh đất chuyển động dữ dội và Thiên Thần Chúa từ trời xuống lăn tảng đá đậy cửa mộ ra, rồi ngồi lên trên.. Diện mạo Người như ánh chớp, y phục nguời trắng như tuyết.
Lính canh thấy vậy thì khiếp sợ. Tuy nhiên Thiên Thần chấn an hai bà “đừng sợ” và nói: Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Người không còn ở đây nữa. người đã sống lại như Lời Người phán trước…Hai bà vừa mừng vừa sợ chạy về báo tin cho các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu đón hai bà lại. Hai bà liền phục lạy và ôm chân Chúa. Chúa bảo hai bà về báo cho các môn đệ đến Galilê. Họ sẽ gặp Người ở đó.
Trình thuật của tin mừng phục sinh tối nay muốn gởi đến chúng ta hai sứ điệp quan trọng.
Sứ điệp I: Chúa phục sinh mang đến niềm vui
Thiên Thần Chúa đã trấn an trước nổi lo sợ của hai phụ nữ “đừng sợ” .
Sau khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ đều hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi phục sinh, Chúa muốn chấn an các môn đệ Người “Đừng sợ”. Đừng sợ thập giá của đau khổ, bởi từ nay thập giá sẽ trở thành thánh giá vinh quang”. “ Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn”. Đừng sợ ma quỷ, đừng sợ thế gian, đừng sợ thần chết vì Chúa đã chiến thắng tất cả. Ai tin nhận Người cũng sẽ chiến thắng vẽ vang như thế.
Sứ điệp II: Loan báo tin mừng phục sinh
Sau khi nhận ra Chúa phục sinh, hai bà tiến đến ôm chân Chúa và bái lạy. Ngay khi đó Chúa phục sinh trao ban cho hai bà sứ mạng loan báo. “Hãy về báo cho anh em của thày để họ đến Galilê. Họ sẽ gặp thầy ở đó”
Tin mừng phục sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh. Chính Thánh Phêrô là tông đồ đã vâng nghe và đã thi hành lệnh truyền đó qua bài đọc I. Cv 10,34.37-43
Viên quan bách quản Roma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này : Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh Kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Keryma thường là
a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
b) Cái chết của Ngài.
c) Việc Ngài sống lại.
d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
b) Cái chết của Ngài.
c) Việc Ngài sống lại.
d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên thánh giá và đã phục sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.
Xin cho chúng ta biết tin tưởng vào sức mạnh và quyền năng của Chúa Phục sinh mà dám chết đi cho tội lỗi, xác thịt và thế gian để được sống lại vinh hiển với Chúa.
Xin cũng cho chúng ta biết nổ lực loan báo tin mừng phục sinh cho mọi người bằng lời nói, gương lành để xua tan bóng tối sợ hải của hận thù chia rẻ, ích kỉ bất công và chết chóc mà đón nhận ánh sáng tình thương và tha thứ, của chân lý và niềm vui sự sống mà Chúa phục sinh đem đến qua đời sống chúng ta.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
TÌNH YÊU VÀ LỜI CHÚA
GIÚP NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH
(Ga 20, 1-9)
Truyện kể:
Mặt trăng và Mặt Trời tranh cãi với nhau về Trái Ðất.
N. Mặt Trời nói : "Lá và cây cối, tất cả đều màu xanh".
Đ. Nhưng Mặt Trăng thì lại cho rằng, tất cả chúng mang một ánh bạc lấp lánh.
Đ. Mặt Trăng nói rằng, con người trên Trái Ðất thường ngủ.
N. Còn Mặt Trời lại bảo con người luôn hoạt động đấy chứ.
Đ. Con người hoạt động, vậy tại sao trên Trái Ðất lại yên ắng đến vậy ? Mặt Trăng cãi.
N. Ai bảo là trên Trái Ðất yên lặng ? Mặt Trời ngạc nhiên. Trên Trái Ðất mọi thứ đều hoạt động, và còn rất ồn ào, náo nhiệt nữa.
Và họ cãi nhau rất lâu, cho đến khi Gió bay ngang qua.
G. Tại sao các bạn lại cãi nhau về chuyện này chứ ? Tôi đã ở bên cạnh Mặt Trời khi Mặt Trời nhìn xuống Trái Ðất, và tôi cũng đi cùng Mặt Trăng khi Mặt Trăng xuất hiện.
Khi Mặt Trời xuất hiện, mọi thứ là ban ngày, cây cối màu xanh, con người hoạt đông. Còn khi Trăng lên, đêm về, mọi người chìm vào giấc ngủ.
Nếu chỉ nhìn mọi việc dưới con mắt của mình, thì mọi thứ chẳng có gì là hoàn hảo, trọn vẹn cả. Không thể đánh giá Trái Ðất chỉ bằng con mắt của Mặt Trời hoặc Mặt trăng được.
Tin mừng phục sinh thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng kiến cùng một sự kiện “Ngôi mộ trống”.
- Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Gioan 20, 13-15).
- Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lu-ca 24, 12).
- Còn Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su thương mến, thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20, 9).
Sở dĩ có cái nhìn khác nhau là vì cả ba có những tâm trạng khác nhau:
Maria Macđala, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra thăm mộ Chúa. Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra, bà đã hốt hoảng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Tình thương mà Maria Macđala dành cho Chúa Giêsu là một tình thương đáng trân trọng. Nhưng nếu tình thương chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính thường tình của con người thì không có khả năng nhận ra Chúa phục sinh.
Phêrô mang tâm trạng buồn vì tội lỗi đè nặng nên cũng không nhận ra gì hơn ngoài việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại xếp riêng ra cũng như ngôi mộ trống. Phải chăng lúc đó tâm trí của Phêrô vẫn còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông vẫn còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi của mình. Ông còn phải có thời gian và kiên nhẫn như là liều thuốc đặc trị chữa lành vết thương tâm hồn bất tín mà tiến đến niềm tin vào Chúa phục sinh.
Gioan, người môn đệ Chúa yêu, mà cũng là môn đệ rất yêu Chúa, nên khi chứng kiến những băng vải còn đó bên ngôi mộ trống ông đã tin.
Để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan đã vượt lên trên tình cảm thường tình của Maria Macđala và nổi đau buồn vì mặc cảm tội lỗi của Phêrô. Cái nhìn vào sự kiện ngôi mộ trống của Gioan được định hướng bởi t́nh yêu trong sáng và sự hướng dẫn của Lời Chúa. Chính cái nhìn này đã cho ông niềm tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như thế, cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều tâm trạng khác nhau nên đưa đến cái nhìn khác nhau.
Những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất bại…như là dấu chỉ “ngôi mộ trống” thường xuyên xảy đến cho chúng ta. Vậy trước những dấu chỉ đó ta có cái nhìn như thế nào?
Có thể giống như Maria Macdala, chỉ dừng lại ở tình cảm thường tình nên khi những biến cố ấy xảy đến trong cuộc sống, chúng ta chỉ phản ứng theo cảm tính. Vui mừng khi thành công, hạnh phúc…, đau buồn khi gặp nghèo khổ, mất mác, thất bại trong cuộc sống.
Có thể chúng ta cũng giống như Phêrô chẳng thấy gì hơn khi đối mặt với thử thách. Đối diện trước những biến cố, chỉ dừng lại ở sự ngạc nhiên như bao người, không thể nhận ra gì thêm ở phía sau biến cố ấy mà Chúa gởi đến.
Xin cho chúng ta biết nhìn mọi việc, mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời với cái nhìn đức tin của thánh Gioan. Nhờ cái nhìn đức tin này thì cho dù đối mặt với bất cứ thử thách nào, hoàn cảnh nào ta vẫn thấy an tâm vì chính Chúa Phục sinh hiện diện và đồng hành cùng chúng ta.
Nhưng để có được cái nhìn đức tin, chúng ta cần có được tình yêu Chúa chân thành, cũng như sáng suốt nhìn những biến cố dưới ánh sáng Lời Chúa. Sống niềm tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo tình yêu Chúa và dưới ánh sáng của Lời Chúa .
Xin Chúa cho chúng con có được tình yêu Chúa nồng nàn và ơn soi sáng bởi Lời Chúa như thánh Gioan để qua những dấu chỉ, biến cố hay sự kiện xảy đến trong cuộc sống, chúng con tin và nhận ra Chúa phục sinh. A-men.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét