Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Mùa Chay hay mùa 40 ngày!



Mùa Chay hay mùa 40 ngày!
 Bình Hòa, OP. 
Nguồn tin: http://www.daminhvn.net
Trong tiếng Việt, mùa phụng vụ mà chúng ta đang sống được gọi là “mùa Chay”. Danh xưng này không được chính xác, bởi vì trọng tâm của thời kỳ này không phải là ăn chay. Tên gọi trong nguyên gốc latinh là “Quadragesima” có nghĩa là 40 ngày. Đây là con số mang tính cách biểu tượng của sự đào tạo chuẩn bị. Đức Giêsu đã lên hoang địa 40 ngày để chuẩn bị sứ vụ công khai. Sau khi phục sinh, đức Giêsu hiện ra với các môn đệ trong vòng 40 ngày để chuẩn bị họ thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Trong Cựu ước, các ông Mosê và Elia cũng trải qua 40 ngày chuẩn bị trước khi diện kiến Thiên Chúa trên núi Horeb.
Ngoài ra, số 40 cũng nhớ lại 40 năm dân Do thái lưu lạc trên sa mạc trước khi vào đất hứa. Chính vì thế mà từ thời các giáo phụ, Giáo hội đã đặt ra mùa 40 ngày để chuẩn bị các tín hữu mừng lễ Vượt qua, và cách riêng chuẩn bị các dự tòng lãnh các bí tích khai tâm. Bài Tin mừng chúa nhựt thứ nhất mùa 40 thuật lại việc Chúa Giêsu vào trong hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Tuy nhiên thay vì dừng lại ở Satan và các chước cám dỗ, bài huấn dụ hôm qua trình bày về các thiên sứ đến phục vụ Chúa Giêsu sau cuộc chiến thắng. Vào buổi chiều, đức thánh cha bắt đầu tuần tĩnh tâm kéo dài cho đến sáng thứ 7. Năm nay vị giảng phòng là đức hồng Francis Arinze, người Nigeria, nguyên tổng trưởng bộ phụng tự, với chủ đề là “Linh mục gặp Chúa Giêsu và đi theo Người”.
Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.
Anh chị em thân mến
Hôm nay là chúa nhật thứ nhất mùa Bốn Mươi. Bài Tin mừng theo thánh Marcô, với lối hành văn ngắn gọn và súc tích, đưa chúng ta vào bầu khí của mùa phụng vụ này với những lời như sau: “Thần khí đẩy đức Giêsu vào nơi hoang địa, và Người ở lại đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,12). Bên Thánh địa, ở mạn đông của sông Giorđanô và cánh đồng Giêricô, nổi vượt lên hoang địa Giuđa, với những đồi núi chập chùng cao chừng một ngàn thước, kéo dài cho đến Giêrusalem. Sau khi đã lãnh phép rửa bởi ông Gioan, đức Giêsu vào nơi cô tịch, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, Đấng đã ngự xuống trên Người, đã thánh hiến và mặc khải Người là Con Thiên Chúa. Trong hoang địa, nơi của thử thách như kinh nghiệm của dân Israel cho thấy, biểu lộ rõ rệt thực tại bi đát của mầu nhiệm tự huỷ (kenosis) của đức Kitô, kẻ lột bỏ hình dong Thiên Chúa (xc. Pl 2,6-7). Đức Kitô, kẻ không phạm tội và không thể nào phạm tội, đã chịu đựng thử thách, và như thế Người có thể cảm thông nỗi yếu đuối của chúng ta (xc Dt 4,15). Người đã chịu cám dỗ bởi Satan, kẻ đối lập, ngay tử nguyên thuỷ đã chống lại kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
Đối lại với hình ảnh đen tối của kẻ đến cám dỗ Chúa Giêsu, bài trình thuật ngắn ngủi phác thảo sự hiện diện của các thiên sứ, một hình ảnh sáng ngời và huyền nhiệm. Theo bài Tin mừng, các thiên sứ đến “phục vụ” Đức Giêsu (Mc 1,13). Họ là những kẻ đối nghịch với Satan. “Thiên sứ” có nghĩa là kẻ được phái cử. Trong suốt Cựu ước, chúng ta gặp thấy hình ảnh của các ngài; nhân danh Thiên Chúa họ đến giúp đỡ và dẫn dắt loài người. Chỉ cần nhớ lại Sách Tobia, trong đó xuất hiện thiên sứ Raphael, để giúp đỡ cậu Tobia trong nhiều việc. Sự hiện diện trấn an của sứ thần Chúa đã theo dõi suốt dòng lịch sử dân Israel trong hết mọi biến cố vui buồn. Trước thềm Tân ước, thiên sứ Gabriel được phái đến để báo cho ông Dakaria và bà Maria những biến cố bắt đầu lịch sử của ơn cứu độ chúng ta, và một thiên sứ, không nói rõ tên, đã hiện ra với ông Giuse để hướng dẫn ông trong lúc do dự. Một ca đoàn thiên sứ đã mang đến các mục đồng tin vui Đấng Cứu thế giáng sinh, cũng như các thiên sứ sẽ báo tin cho các phụ nữ tin mừng Chúa phục sinh. Vào cuối dòng thời gian, các thiên sứ sẽ tháp tùng Chúa Giêsu khi Người trở lại trong vinh quang (xc. Mt 25,33). Các thiên sứ phục vụ Chúa Giêsu, Đấng cao trọng hơn họ, và địa vị của Người được nêu bật ở đây tuy dưới hình thức kín đáo. Thực vậy, đức Giêsu, tuy ở trong tình trạng cực kỳ nghèo khó và khiêm tốn, chịu Satan cám dỗ, nhưng Người vẫn là Con Thiên Chúa, là Đấng Mesia, là Chủ tể.
Anh chị em thân mến, chúng ta sẽ cắt bỏ một phần đáng kể của Tin mừng nếu chúng ta gạt qua các thiên sứ, những kẻ được Chúa phái đến, đến loan báo sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta, và họ trở nên một dấu chỉ. Chúng ta hãy năng kêu khẩn các ngài, xin các ngài nâng đỡ chúng ta trong nỗ lực đi theo Chúa Kitô đến độ đồng hóa với Người. Chúng ta hãy xin các ngài, cách riêng ngày hôm nay, canh giữ tôi và các cộng sự viên trong giáo triều Rôma, sẽ bắt đầu tuần tĩnh tâm chiều nay.
Lạy Đức Maria là Nữ vương các tông đồ, xin cầu cho chúng con.
Tác giả bài viết: Bình Hòa, OP.

Bài Học Mùa Chay

Sr. Minh Huệ, OP
NHƯ KINH NGHIỆM NHIỀU NGƯỜI, CHÍNH TÔI ĐÃ hơn một lần xác định rằng mùa chay là thời điểm thích hợp cho việc hoán cải chính mình. Một cơ hội thuận tiện cho cuộc tự vấn đời sống. Đây là thời điểm của thống hối, hòa giải với Thiên Chúa và người xung quanh. Mùa chay là mùa thuận lợi để đào sâu ý nghĩa và thực hành việc bác ái, mở rộng cửa lòng đón nhận anh em đồng loại và là thời kỳ dẫn đến mùa phục sinh, mừng mầu nhiệm Chúa sống lại
Nhìn lại mấy mùa chay qua, có lẽ khi va chạm thực tế, tôi đã áp dụng bài học mùa chay một cách hời hợt bên ngoài, nên vẫn còn vương vấn hương vị lợi ích riêng tư cá nhân. Phải chăng vì thế mà cuộc sống tôi chưa mang lại sự phong phú về ý nghĩa ăn năn, sám hối?
. . . Dẫu cho những biến cố cuộc sống có làm tôi sa đi ngã lại, Chúa, Đấng nhân hậu, từ bi nhẫn nại và giàu ân nghĩa, luôn mời gọi tôi chỗi dậy tiếp tục cuộc hành trình trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Ngài. Ngài bổ sức, dạy bảo tôi luôn vững bước tiến tới vì tôi có bổn phận phải chu toàn trên đường thiêng liêng, đó là nên hoàn thiện "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt. 5, 48). Thiết tưởng đây là một thách đố lớn mà tôi cần quan tâm đặc biệt, nhận thức rõ về chính mình và thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Để làm được điều này, khi đối diện với thời điểm thích hợp những ngày chay thánh thiện gần kề, tôi cần phải trải qua một cuộc hoán cải nội tâm, nhìn lại chính mình và kiên trì cầu nguyện.
Trong cầu nguyện, tôi trở về với cung lòng nơi chỉ có Chúa và tôi tâm sự, như thánh Gioan Vianney đã định nghĩa: " Cầu nguyện là tâm sự với Chúa". Là người sống nhờ Lời Chúa, tin vào Chúa, tôi được mời gọi đơn sơ bày tỏ tâm tình và ngày một sống gần gũi mật thiết với tình Ngài hơn.
Bên cạnh cầu nguyện là cuộc hoán cải nội tâm và thay đổi đời sống hòa giải với Chúa và tha nhân. Muốn làm được như vậy, tôi cần có lòng can đảm và kiên nhẫn luyện tập đức khiêm nhường, dẹp bỏ tính tự ái, cái tôi vị kỷ, thói cũ trong cách ăn, nếp ở, ly thoát sự thờ ơ lãnh đạm và gạt bỏ những hố sâu ngăn cách. Tôi biết, tôi sẽ gặp khó khăn khi thực hành, nhưng tôi hy vọng, tôi sẽ thắng vượt nhờ đức mến, vì "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hòa không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù" (I cor. 13, 4- 5). 
Bài học mùa chay cho tôi năm nay, cũng giống bài học của mùa chay năm nào, là canh tân đời sống, như Chúa phán dạy: " Các ngươi hãy ăn chay, khóc lóc, rên siết mà hết lòng trở về với Ta. Anh em hãy xé nát tâm hồn, chớ đừng xé áo. Hãy trở về với Thiên Chúa là Chúa của anh em, bởi vì Người nhân hậu từ bi, nhẫn nại và giàu ân nghĩa thường bỏ ý định giáng phạt" (Ge 2,12-13).
Với tâm tình đó, tôi ước mong bài học này sẽ chắp cánh cho tôi bay cao, bay mãi tới phương trời vẹn nghĩa yêu thương, sám hối và quy hướng tâm hồn tôi về ngày Chúa phục sinh khải hoàn.
  2. Ngày II:  thứ tư   (14 . 04 . 2011 )
  
BÀI I :   ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
            Hôm ngày 11 . 09 . 2008, tôi đi cử hành lễ an táng cho một bà 71 tuổi tại một họ đạo nhỏ của tôi. Mặc dầu hôm ấy tôi giảng rất tốt về lòng nhân từ của Thiên Chúa và lòng tin sau cùng của bà, nhưng trên đường về nhà, lòng tôi sao vẫn miên man suy nghĩ.
Nghĩ rằng rồi bà này sẽ ra sao ? Chúa sẽ định cho bà thế nào, vì bà đã bỏ Chúa trên 30 năm, đã bao nhiêu lần tôi đã đến thăm và nhắc nhỡ. Có lần tôi vào nhà bà, thấy tôi, bà bỏ vào nhà sau, không muốn gặp mặt tôi.
Bà có 11 người con. Dường như bà là mụ chủ, làm quyền cả chồng, con. Bà quản lý tất cả tiền bạc, tài sản. Cả nhà bà có tất cả 13 người, nhưng chỉ có chồng bà và người con thứ năm còn giữ đạo, đi lễ thường xuyên. Cuộc sống của bà rất ích kỷ, bà chửi chồng chửi con, và thường xuyên chửi người hàng xóm, kể cả con ruột của bà mà bà cũng chẳng thương, có lẽ bà chỉ biết thương bà mà thôi. Bà có của ăn dư thừa, con cháu bà đói, bà cũng chẳng cho. Ngày bà chết, các em học sinh đi ngang nhà bà xầm xì với nhau: từ nay chúng mình hết nghe bà này chửi nữa rồi.
            Những ngày bà bệnh nặng, nằm trong bệnh viện, các con của bà có mời Cha đến ban Bí tích giải tội, xức dầu và trao Mình thánh Chúa. Khi bà qua đời, các con của bà lo an táng rất tốt đẹp: Cái quan tài của bà đẹp và quí nhất mà tôi thấy từ khi tôi có trí khôn tới bây giờ. Nhà mồ thì cao ráo, vững chắc, và cũng rất đẹp.
            Điều tôi suy nghĩ và lo lắng là khi Cha đến giải tội, xức dầu và trao Mình thánh Chúa, lúc đó bà tỉnh hay mê ? Bà có ăn năn tội thật lòng không ?. . . Thôi thì linh hồn bà ra sao, Chúa biết, nhưng dầu sao tôi cũng nghĩ thầm rằng bà này sướng thật, cả đời chẳng giữ đạo, tánh tình thì hung dữ, thế mà giờ cuối được gặp linh mục . . .
            Những tư tưởng trên cho tôi một cảm nhận đường lối của Thiên Chúa thật là diệu kỳ. Rồi hôm nay, suy niệm đoạn Phúc âm Mt 20, 1 – 16: về dụ ngôn những thợ làm vườn nho, tôi lại cảm nhận sâu hơn đường lối của Thiên Chúa: suy nghĩ của con người không hẳn là suy nghĩ của Thiên Chúa.
            Có nhiều người đọc xong dụ ngôn “những người thợ  làm vườn nho”, họ nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình, bởi vì Thiên Chúa trả công cho người làm cực nhọc suốt ngày có 1 đồng, và Ngài cũng trả cho người làm có 1 giờ vào buổi chiều trời mát cũng được 1 đồng.
            Nếu chịu khó đọc kỷ lại dụ ngôn này, ta thấy chẳng có gì là không công bằng. Bởi vì ngay từ sáng sớm, ông chủ đã thỏa thuận với người làm công về tiền công là một ngày một đồng rồi, nên cuối ngày ông chủ trả cho họ một đồng là đúng công bằng giao hoán rồi, nếu như ông trả không đủ một đồng mới là bất công. Còn đối với người làm có 1 giờ, ông trả cho họ 1 đồng là ông đã đối xử hơn mức công bình, nghĩa là ông muốn đối xử theo lòng thương xót của ông, ông có quyền chớ.
            Con người chúng ta thấy một mà không thấy hai. Cái gì chúng ta cũng đòi hỏi công bình, hợp lý. Kể cả Thiên Chúa, chúng ta cũng đòi hỏi Thiên Chúa đối xử công bình theo quan điểm của ta, nhưng chúng ta quên rằng đối xử theo công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử theo lòng thương xót là đối xử bằng tình. Bởi đó, nếu như Thiên Chúa đối xử với chúng ta theo công bình, thì chúng ta chịu nổi không ?  vì trong Thánh vịnh có câu: “Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội thì nào ai chịu nổi được chăng ? (Tv 129, 3)”. Thật mỉa mai ! bất chính như con người thì đòi đối xử bằng lý; công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.

Đường lối của Thiên Chúa là thế đó. Tôi đọc được câu chuyện, không biết tác giả là ai, kể rằng: Có một tội nhân kia suốt đời được Thiên Thần khuyên nhủ, dẫn dắt sống theo con đường hẹp. Nhưng thật uổng công vô ích, ông vẫn một mực đi theo con đường tội lỗi. Gần đến ngày ông về tính sổ với Chúa, từ giả cõi đời, Thiên Thần bản mệnh chỉ còn biết khóc thầm, thương cho số phận tội nhân.
Ma quỉ không bỏ lỡ cơ hội thúc đẩy tội nhân đi vào con đường dẫn xuống hỏa ngục, nên chúng đến bên ông và gieo vào tâm hồn ông niềm thất vọng, chán nản. Ma quỉ nói:
- Thôi, ông cứ tiến thẳng đến án phạt của ông đi, vì đời sống của ông chỉ toàn là những việc gian ác.
Trong chốc lát, ông như tỉnh ngộ, ông bước đi nhưng mắt vẫn ngước nhìn về ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự, và lòng ông vẫn còn hy vọng được Thiên Chúa tha thứ, vì lòng nhân từ khoan dung vô biên của Thiên Chúa. Thấy vậy, ma quỉ mới nói với ông:
- Hỡi người tội lỗi cứng lòng, hãy bước đi chứ đừng hy vọng tin tưởng gì nữa.
Tội nhân vẫn tiếp tục tiến bước, trong lòng vẫn tiếp tục lời cầu nguyện e thẹn:
- Lạy Chúa, Chúa là Đấng công minh, con thật đáng với án phạt, nhưng vì tình thương khoan thứ của Chúa, xin tha tội cho con. Tuy dù con bất xứng trăm bề, nhưng Chúa biết rằng con tin tưởng vào tình thương vô biên của Chúa, vào lòng xót thương bao la vô cùng của Chúa. Lạy Chúa, nỡ nào Chúa lên án phạt con hay sao. Nỡ nào Chúa mở miệng thốt lên lời sau cùng là lời tuyên phạt con đời đời hay sao ?
Thiên Chúa cảm động trước lời cầu xin khiêm tốn và thành thật của ông ta, nên khuyên bảo các Thiên Thần:
- Hãy dẫn người đàn ông khiêm tốn kia đến trước mặt Ta. Lửa tình thương của Ta sẽ thiêu hủy hết các tội lỗi của nó. Mặc dù nó phạm tội rất nhiều, nhưng không bao giờ nó hết nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Ta. Chính vì thế, Ta muốn nó được sống trong Nước vinh quang của Ta, sống bên cạnh Ta và nó sẽ ngợi ca lòng nhân từ Ta mãi mãi.

Trong tuyển tập “Nói Với Chính mình”, Đức Cha GioanB­ta Bùi Tuần đã viết: “Thiên Chúa có những đường lối khác hẳn với những gì mà tôi nghĩ:
* Tôi tưởng Chúa phải chọn cho mình một phụ nữ giàu sang quyền quí; nào ngờ Ngài đã chọn cho tôi một thôn nữ nghèo.
* Tôi tưởng Chúa phải giáng trần giữa một thành thị phồn hoa; nào ngờ Ngài đã sinh ra trong một chuồng bò lạnh giá.
* Tôi tưởng Chúa sẽ làm gì để ra lệnh cho vua Hêrôđê không được hạ sát những trẻ nhỏ, muốn tiêu diệt Đấng Cứu Thế; nào ngờ Ngài lại âm thầm để cho Đức Mẹ và Thánh Giuse ẵm đi, đang khi bao kẻ vô tội lại bị chết oan.
* Tôi tưởng Chúa thấy gia đình vất vả thì sẽ ra tay làm một chút phép lạ cho cha mẹ được dư giả, để các ngài được thong thả và an nhàn sung sướng; nào ngờ Ngài lại để cho cha mẹ Ngài vất vả, cực khổ như bao người lao động.
* Tôi tưởng Chúa xuống trần cứu thế thì phải thực hiện cứu thế một cách cấp kỳ sớm ngày nào hay ngày đó; nào ngờ Ngài lại sống âm thầm suốt ba mươi năm với Đức Mẹ rồi mới ra mặt giảng dạy.
* Tôi tưởng Chúa xây dựng Nước Trời bằng cách khởi sự mua một khu đất, lập một trụ sở, cất một Thánh Đường; nào ngờ suốt cuộc đời Ngài chỉ lo xây dựng Nước Chúa trong lòng người ta.
* Tôi tưởng Chúa có thể tuyển mộ những người học thức có nhiều thế giá; nào ngờ Ngài chỉ chọn mười hai người trong đám dân thường.
* Tôi tưởng Chúa chọn những người có nhiều bằng cấp và không có chút tỳ ố gì làm đại diện Ngài lãnh đạo Giáo Hội; nào ngờ Ngài lại chọn một người thuyền chài quê mùa, đã công khai ba lần chối Chúa.
* Tôi tưởng Chúa bắt các môn đệ Ngài mặc một thứ đồng phục nào, hay đeo một thứ huy hiệu nào để người ta dễ phân biệt họ với những người khác; nào ngờ Ngài lại bảo “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34).
* Tôi tưởng Chúa căn dặn môn đệ phải năng đi nhà thờ dự lễ, lo vâng lời giữ mình sạch sẽ, và cho đó lấy làm việc quan trọng nhất của những người đạo đức thánh thiện; nào ngờ Chúa cứ nhấn mạnh hoài đến đức yêu thương, và dặn dò đó là điều răn mới, và trọng bậc nhất của đạo Ngài.
Chúa nhìn xa thấy rộng biết rõ mọi sự, thấy hết điều hay điều dở; còn tôi thì thiển cận nông nổi dại dột thế mà nhiều khi tôi lại dám kêu trách Chúa”.

Những suy tư của Đức Cha Bùi Tuần giúp mỗi người chúng ta mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu, và đi vào “đường lối của Thiên Chúa”.

                 BÀI II:   CHẤP NHẬN HAY GỤC NGÃ

Có một cuốn phim Mỹ, mang tựa đề “Ngã Gục”, trình bày thảm kịch của một người phải chiến đấu chống lại những phiền toái trong cuộc sống hằng ngày, nhưng cuối cùng anh đã ngã gục và chết thê thảm.
            Nội dung cuốn phim như sau:
            Một buổi sáng mù hè oi bức, trên đường đến sở làm, xe của một người bị chết máy làm kẹt xe cả hàng dài, khiến mọi người bực bội bóp kèn inh ỏi. Với dáng vẻ thiếu kiên nhẫn, một người đàn ông bỏ xe trên đường và đi bộ đến một trạm điện thoại công cộng để gọi điện chúc mừng sinh nhật đứa con gái nhỏ đang sống với người vợ đã ly dị.
            Không có tiền lẻ để gọi điện thoại, ông ta vào cử hàng tạp hóa của một người Đại Hàn mua một lon Coca và trả bằng tiền giấy 100 US với hy vọng được thối lại một ít tiền lẻ để gọi điện thoại. Nhưng người chủ tiệm không có tiền lẻ, đôi bên lời qua tiếng lại, khiến cho ông ta nổi giận đập phá cửa tiệm và hành hung người chủ.
            Buồn tình, ông ta thơ thẩn ra ngồi giữa đồng trống. Hai tên du đảng không rõ từ đâu đến, xông vào đánh tống tiền ông ta. Trở tay kịp, ông ta đã đánh trả lại cho hai tên du đảng một trận nên thân. Sau đó, anh lại thơ thẩn tìm xuống một khu phố, điện thoại về nhà người vợ củ.
            Hai tên du đảng đã trở lại với một đám đông có võ trang. Nhận ra ông, họ nã súng vào người ông, nhưng ông ta không hề hấn gì, mà nhiều người vô tội đứng xung quanh bị thiệt mạng.
            Bọn du đảng phóng xe chạy quá nhanh, nên tông vào những chiếc xe trước mặt. Cả bọn nằm giở sống giở chết trong xe. Ông ta liền đến lấy súng và bắn xối xả vào đám du đảng.
            Mùi thuốc súng đã đưa ông ta đi quá xa vào cuộc phiêu lưu, mà có lẽ ông ta không ngờ được. Ông chỉ muốn trở về nhà người vợ củ để thăm và mừng sinh nhật đứa con gái thân yêu của ông. Nhưng cuộc truy lùng của cảnh sát đã đẩy ông vào bước đường cùng. Và ông ta chỉ còn một chọn lựa duy nhất là đương đầu với cảnh sát, và bị cảnh sát bắn ngã gục.
           
            Cuốn phim kết phúc một cách bi thảm như thế, để nói lên rằng: Khi con người không chấp nhận cuộc đời với những phiền toái của nó, thì con người sẽ bị cuộc đời loại bỏ không xót thương.
            Ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó. Ở đâu cũng có niềm vui và nỗi khổ, và ngày nào cũng có niềm vui và nỗi khổ cho ngày ấy. Hạnh phúc hay bất hạnh là tùy ở thái độ chấp nhận cuộc sống của mỗi người. Và người ta chỉ thắng vượt được những phiền toái trong cuộc sống bằng cách mỉm cười đón nhận nó. Chính Chúa Giêsu đã vui vẻ chấp nhận như thế.
            Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc sống với tất cả trân trọng và yêu thương. Yêu thương cuộc sống với tất cả những phiền toái và bất trắc của nó. Yêu thương con người với tất cả những yếu hèn khiếm khuyết và độc ác của con người. Đó là thái độ mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải mặc lấy.
            Trong bài Tin Mừng hôm nay “Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết và ngày thứ ba thì sống lại”. Phêrô không chấp nhận, nên can ngăn: “Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nếu chẳng phải như vậy thì không còn là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những như vậy mà còn hơn như vậy nữa. Vâng, Người chịu đau khổ biết chừng nào, vượt mức chúng ta tưởng tượng. Người muốn nói với Phêrô cũng như muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: con cũng phải chịu đau khổ như vậy, nếu không con sẽ gục ngã.
            Người nhấn mạnh với mỗi người chúng ta rằng: chúng ta phải chấp nhận đau khổ . Hãy nhìn xem, hằng ngày có biết bao người phải chịu đau khổ như nhức đầu , đau lưng, đau tim hay một thứ bệnh nan y nào đó, còn nặng nề hơn nữa cho những người Nhật bị trận động đất và sóng thần ngày 11 . 03 . 2011; và cũng có biết bao người đau khổ tinh thần vì gia đình bất hòa, ly tán, con cái không nghe lời cha mẹ, hay có những tai nại xảy ra cho người thân yêu của mình. Như vậy, hằng ngày họ mang thánh giá nặng rồi, họ bị dằn vặt với những đau khổ thể xác, những lo âu trong tâm hồn. Họ không cần thánh giá đặc biệt nào khác, vì thánh giá đã sẵn trên vai họ. Điều quan trọng là họ biết mang thánh giá bằng việc dâng lên những đau khổ hằng ngày của mình để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu hay không ? Đón nhận những đau khổ, phiền toái, bất trắc hằng ngày trong tinh thần của Chúa Giêsu, thì quả thật những đau khổ đó trở nên quí giá.

            Chấp nhận hay gục ngã. Đừng lẩn trốn để rồi phải ngã gục như người đàn ông trong câu chuyện ở trên. Cũng đừng tránh né như Phêrô để rồi bị Chúa Giêsu mắng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy”. Hãy nhớ đến những gì Chúa Giêsu đã trải qua, như chúng ta hằng nhớ trong mỗi Thánh Lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.


Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.

Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.

Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giê-su vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.

Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài… Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.

Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giê-su, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giê-su đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giê-su còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giê-su còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.

Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm:“Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?

Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giê-su, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giê-su đó sao?!

Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.

Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét